584000₫
killer clubs 1xbet Năm 1963, The Beatles có được tiếng tăm trên toàn nước Anh. Ngay tháng 1, đĩa đơn Please Please Me và Love Me Do đều xuất hiện tại các bảng xếp hạng ở đây cũng như trên chương trình truyền hình ''Thank Your Lucky Stars'' với đánh giá tích cực, giúp họ tăng được lượng đĩa bán cũng như tần suất trên đài phát thanh. Tới cuối năm, hiện tượng Beatlemania đã lan rộng ra toàn quốc, và chỉ tới tháng 2 năm 1964, The Beatles đã trở thành hiện tượng toàn cầu, có mặt cả trên chương trình ''The Ed Sullivan Show'' tại Mỹ với 73 triệu người xem trực tiếp. Starr bình luận: ''Tại Mỹ, tôi biết mình đã đạt tới thành công. Nó giúp tôi tỉnh giấc và nghe thấy những đứa nhóc gọi tên mình. Tôi cảm nhận nó theo cá tính mình... Những tiếng gọi đó... là sự việc thường ngày của chúng tôi.'' Anh chính là chủ đề cho khá nhiều sáng tác đương thời, có thể kể tới I Want to Kiss Ringo Goodbye của Penny Valentine hay Ringo for President của Rolf Harris. Năm 1964, huy hiệu cài áo I love Ringo là sản phẩm bán chạy nhất của The Beatles. Trong các buổi trình diễn, ban nhạc vẫn giành nhiều thời gian cho Starr Time vốn trở nên rất phổ biến với người hâm mộ: Lennon tiến tới đặt chiếc micro trước dàn trống của Starr và khán phòng sẽ tràn ngập những tiếng hò hét. Khi The Beatles bắt đầu thực hiện bộ phim ''A Hard Day's Night'', Starr nhận được ngày một nhiều sự yêu mến từ giới chuyên môn vốn đánh giá cao với khả năng diễn đạt khuôn mặt ngây đơ 1-cảm-xúc và những hoạt cảnh câm trong phim. Những hoạt cảnh câm đó thực tế được sắp đặt bởi đạo diễn Richard Lester vốn dĩ do Starr không có nhiều thời gian nghỉ ngơi đêm trước đó. Anh bình luận: ''Chỉ vì tôi đã uống cả đêm mà hôm đó tôi không nói được lời nào.'' Epstein gọi những lời nhận xét của Starr là sự kỳ quái của gã lùn. Sau khi ban nhạc ra mắt bộ phim ca nhạc thứ 2, ''Help!'' (1965), Starr được độc giả tờ ''Melody Maker'' là nhân vật chính của bộ phim chứ không phải là bất cứ thành viên nào khác của The Beatles.
killer clubs 1xbet Năm 1963, The Beatles có được tiếng tăm trên toàn nước Anh. Ngay tháng 1, đĩa đơn Please Please Me và Love Me Do đều xuất hiện tại các bảng xếp hạng ở đây cũng như trên chương trình truyền hình ''Thank Your Lucky Stars'' với đánh giá tích cực, giúp họ tăng được lượng đĩa bán cũng như tần suất trên đài phát thanh. Tới cuối năm, hiện tượng Beatlemania đã lan rộng ra toàn quốc, và chỉ tới tháng 2 năm 1964, The Beatles đã trở thành hiện tượng toàn cầu, có mặt cả trên chương trình ''The Ed Sullivan Show'' tại Mỹ với 73 triệu người xem trực tiếp. Starr bình luận: ''Tại Mỹ, tôi biết mình đã đạt tới thành công. Nó giúp tôi tỉnh giấc và nghe thấy những đứa nhóc gọi tên mình. Tôi cảm nhận nó theo cá tính mình... Những tiếng gọi đó... là sự việc thường ngày của chúng tôi.'' Anh chính là chủ đề cho khá nhiều sáng tác đương thời, có thể kể tới I Want to Kiss Ringo Goodbye của Penny Valentine hay Ringo for President của Rolf Harris. Năm 1964, huy hiệu cài áo I love Ringo là sản phẩm bán chạy nhất của The Beatles. Trong các buổi trình diễn, ban nhạc vẫn giành nhiều thời gian cho Starr Time vốn trở nên rất phổ biến với người hâm mộ: Lennon tiến tới đặt chiếc micro trước dàn trống của Starr và khán phòng sẽ tràn ngập những tiếng hò hét. Khi The Beatles bắt đầu thực hiện bộ phim ''A Hard Day's Night'', Starr nhận được ngày một nhiều sự yêu mến từ giới chuyên môn vốn đánh giá cao với khả năng diễn đạt khuôn mặt ngây đơ 1-cảm-xúc và những hoạt cảnh câm trong phim. Những hoạt cảnh câm đó thực tế được sắp đặt bởi đạo diễn Richard Lester vốn dĩ do Starr không có nhiều thời gian nghỉ ngơi đêm trước đó. Anh bình luận: ''Chỉ vì tôi đã uống cả đêm mà hôm đó tôi không nói được lời nào.'' Epstein gọi những lời nhận xét của Starr là sự kỳ quái của gã lùn. Sau khi ban nhạc ra mắt bộ phim ca nhạc thứ 2, ''Help!'' (1965), Starr được độc giả tờ ''Melody Maker'' là nhân vật chính của bộ phim chứ không phải là bất cứ thành viên nào khác của The Beatles.
Được coi như nhánh chủ đạo của thể loại là những trường ca với đề tài lịch sử toàn dân hoặc lịch sử toàn thế giới như ''Illiad'', ''Mahābhārata'', ''La Chanson de Roland'' (''Bài ca chàng Roland'')... các đề tài tôn giáo như ''Divina Commedia'' (''Thần khúc'') của Dante, ''Paradise Lost'' (''Thiên đường đã mất'') của John Milton, ''La Gerusalemme liberata'' (''Jerusalem giải phóng'') của Torquato Tasso, ''La Henriade'' của Voltaire, ''Der Messias'' của Friedrich Gottlieb Klopstock, ''Rossiad'' của Mikhail Matveyevich Kheraskov...